Liên hệ: huephap78@gmail.com

Chủ Nhật, 18 tháng 12, 2011

Thong bao!!!

Vi chu blog mat laptop nen tam thoi khong co bai vo nao tu viet duoc dang tren blog. Qua thang 1 tay lich se co bai moi. Vi vi tinh muon cung khong co font tieng Viet, nen thong bao nay thay loi ta loi vay.

Tran trong

SƯ THẦY, MŨ CỐI, XUẤT CHIÊU....


Chả hiểu nổi, với những gì diễn ra trong Video Clip này. Người nhà Phật, không lẽ lại giống lưu manh, côn đồ hung hãn?. Người nhà Phật, chẳng lẽ thạo nghề cầm gậy chỉ đường, như CSGT? Người ta bảo: "Muốn tu hành, phải có căn duyên", xem xong cái này, mình mới hiểu thế nào là... căn duyên...

theo: Maithanhhai blog

-----------------
Nhin canh thay doi non coi tung chuong phan cam qua, khong biet ben chua Hoang Phap phan cong  quy thay ho tro cho thay Tam Man nhu the nao ma lai co canh qua phan cam nay, khien thien ha che cuoi.

Thứ Hai, 28 tháng 11, 2011

Thống nhất thành lập Liên minh Phật giáo Toàn Cầu


Chiều ngày 27 tháng 11,  vào lúc 16h00, các vị trưởng phái đoàn Hội nghị Phật giáo Toàn Cầu đã có cuộc họp nhằm đưa ra ý kiến thống nhất cho việc thành lập liên minh Phật giáo Toàn cầu. Buổi họp tuy có nhiều quan điểm bất đồng nhưng đa số ý kiến đều có chung một mục đích mong muốn Liên minh Phật giáo này sớm được ra đời, nếu được có thể thống nhất thành lập ngay trong Hội nghị lần này.




Đại biểu phát biểu
Quang cảnh hội nghị







Tin, ảnh: Huệ Pháp, Chí Giác Thông


Chủ Nhật, 27 tháng 11, 2011

Khai mạc Hội Nghị Phật Giáo Toàn Cầu tại New Delhi, Ấn Độ

Sáng nay, Hội Nghị Phật giáo Toàn cầu đã chính thức khai mạc vào lúc 9h30’ sáng tại khách sạn Asoka, New Delhi, Ấn Độ. Đến tham dự hội nghị có hơn 800 đại biểu Phật giáo khắp nơi trên thế giới. Lễ khai mạc được bắt đầu với lễ đốt đèn truyền thống và tụng kinh cầu nguyện. Buổi tụng kinh theo truyền thống Pali do các vị sư Sri Lanka chủ trì và các vị sư Tây Tạng tụng kinh theo truyền thống Sanskrit.




Sau phần tụng kinh cầu nguyện là bài phát biểu của đức Lạt Ma Gaden Tripa Rizong Setrul Rinpiche đời thứ 102, chủ tịch tổ chức Hội nghị Phật giáo Toàn cầu. Ngài tỏ lòng vui mừng vì được đón tiếp các vị Tăng Thống, các vị chủ tịch và trưởng đoàn Phật giáo các nước Phật giáo khắp nơi trên thế giới như Thái Lan, Sri Lanka, Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam, Lào, Campuchia, Nga, Mông Cổ, Bhutan, Malaixia, Indonexia… đã quan lâm và tham dự Hội nghị Phật giáo Toàn cầu và xúc tiến thành lập Liên Minh Phật giáo Thế giới. Ngài mong rằng, dưới ánh sáng trí tuệ của đức Phật, trên mảnh đất nơi đức Phật ra đời này, các đại biểu sẽ đóng góp trí tuệ của mình trong các đề tài thảo luận để góp phần làm cho thế giới ngày càng tốt đẹp hơn, giảm thiểu những bất cập trong đời sống xã hội hiện nay.

Tiếp theo là các bài phát biểu của các lãnh đạo tôn giáo tham dự, và cuối cùng là lời cảm ơn các đại biểu của vị tổng thư ký hội Phật Giáo Asoka Mission – Lạt Ma Lobzang, đơn vị tổ chức hội nghị lần này.

Kính mời quý độc giả xem thêm về một số hình ảnh của ngày khai mạc.



























Tin, ảnh: Huệ Pháp, Chí Giác Thông (từ New Delhi, Ấn Độ)

Thứ Năm, 24 tháng 11, 2011

Hai ngày với Đức Đạt Lai Lạt Ma

Nguyễn Thanh Sơn
Khi nhận được lời mời tham gia vào đoàn hành hương gồm các doanh nhân, nghệ sĩ và phóng viên Việt Nam tới Dharamshala thọ giáo Đức Đạt Lai Lạt Ma, tôi hiểu đây có thể là cơ hội duy nhất trong đời tiếp xúc với người được suy tôn là một trong ba vị thánh nhân của châu Á trong thế kỷ XX, và là người duy nhất còn tại thế. Thân phận đặc biệt của Ngài và mối quan hệ “tế nhị” giữa Việt Nam và Trung Quốc sẽ cản trở bất cứ cố gắng nào mời Ngài viếng thăm Việt Nam, cho dù ảnh hưởng của Phật giáo Mật tông bắt đầu được gia tăng ở đây.
Sau bẩy giờ bay và chịu đựng những cú xóc kinh người suốt gần hai mươi tiếng đồng hồ trên xe bus, chúng tôi tới Dharamshala khi trời đã tối. Dharamshala, thủ phủ chính phủ lưu vong của người Tây Tạng là một thị trấn nhỏ nằm dưới chân dãy Himalaya ở miền Bắc Ấn độ. Hãy nhắm mắt lại hình dung  ra Sapa, Mèo Vạc hay bất cứ một thị trấn vùng biên của Việt Nam, thay thế hình ảnh người Mông, người Dao bằng người Tạng, hình ảnh người Kinh bằng người Ấn độ- vậy là bạn đã hình dung ra Dharamshala. Cũng những dãy phố nhỏ dốc ngược, với hàng trăm cửa hàng nhỏ và tồi tàn bán đủ thứ đồ lưu niệm tạp nham có nguồn gốc đáng ngờ, những con ngựa thồ nặng vừa cặm cụi đi ngược dốc núi vừa vãi phân ra tung tóe trên đường, những khách sạn mini và các quán bar nhỏ xíu với các biển quảng cáo được viết cẩu thả bằng tiếng Anh, tiếng Ấn, những đống rác khổng lồ bốc mùi hôi khủng khiếp ở cạnh sườn núi. Cũng giống như các thánh địa khác, Dharamshala thu hút đủ mọi loại người: các tăng nhân người Tạng, giới bán hàng rong và đám “cái bang” Ấn độ, các nhà sư có nguồn gốc từ mọi ngóc ngách trên thế giới đang học tập tại các tu viện Mật tông, những người mộ đạo Phật, những kẻ hiếu kỳ và khách du lịch thập phương. Từ năm 1959, nơi đây đã trở thành “tiểu Lasha”, “thủ đô lưu vong” của người Tạng và hành cung của Đức Đạt Lại Lạt Ma thứ 14, Tenzin Gyatso (hay Đăng-Châu Gia-mục-thố theo phiên âm tiếng Hán).
Qui Lão” giản dị
Qui Lão: Người ta cứ làm như khoác chiếc áo này lên tôi sẽ trở nên thánh thiện hơn
Trước khi tới Dharamshala, tôi đã nghe nói nhiều về tính giản dị của Đức Đạt Lại Lạt Ma, và được căn dặn ông chỉ muốn mọi người coi ông như một “nhà sư bình thường”- nhưng liệu có thể coi lãnh tụ tinh thần của gần sáu triệu người Tạng, người đã từng đoạt giải Nobel hòa bình vì đấu tranh hòa bình suốt hơn nửa thế kỷ qua cho quyền tự quyết của nhân dân Tây Tạng là một “nhà sư bình thường” như bất kỳ một nhà sư nào khác? Ấy vậy mà, đó chính là cảm giác của tôi trong buổi sáng đầu tiên, khi các thị giả dìu ông vào phòng Pháp thoại (ở tuổi 77, mặc dù trông vẫn rất khang kiện, nhưng bước chân của ông đã trở nên nặng nề)- nếu không phải khuôn mặt của ông đã trở nên quá quen thuộc với chúng tôi qua sách báo, thì ông có thể lẫn vào với bất cứ một nhà sư Mật tông nào khác. Ông ngồi đó, bộ trang phục đơn sơ hở một bên vai, hòa hợp một cách tuyệt vời với sự giản dị của tu viện Namgyal, tu viện riêng của ông, trên chiếc ghế bành đơn giản đến không thể đơn giản hơn được nữa. Ngoài một bức tranh Phật Tổ và mười bẩy bức Thang-ka họa hình các thánh tăng trang trí trên tường, thì phòng học của chúng tôi giống hệt như phòng học của bất cứ một lớp học phổ thông nào tại Việt Nam. Và câu đầu tiên của ông nói với chúng tôi (câu ông sẽ còn phải nhắc lại rất nhiều lần trong suốt hai ngày kế tiếp) là “ngồi, ngồi đi”- qua cách xua tay dứt khoát của ông, có vẻ ông rất “dị ứng” với việc chúng tôi định cử hành lễ “tam bái”, nghi lễ được các sư thầy chuẩn bị cho cả đoàn để biểu hiện lòng thành kính của chúng tôi đối với ông. “Tôi xin lỗi vì ra muộn”- ông nói vẻ hối lỗi-“ có một đoàn đại biểu của người dân tộc tôi vừa tới, và tôi phải tiếp họ một chút. Các bạn biết đấy, họ tới được đây không dễ một chút nào…”. Ngừng một chút, ông nói tiếp “ Tôi đã gặp rất nhiều người Việt Nam ở Mỹ, Pháp, Úc…và tôi luôn luôn giữ một tình cảm đặc biệt đối với đất nước và dân tộc Việt Nam, nhưng đặc biệt hơn cả là đối với những người Việt Nam đến từ Việt Nam”.
Từ Đức Đạt Lai Lạt Ma toát ra một vẻ từ hòa và bình thản vô cùng, và kể từ giây phút đó, hai ngày pháp thoại của chúng tôi bên cạnh ông không còn giống như hai ngày của các tín đồ sùng tín với Đức Phật sống của họ, thế thân của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, mà giống như hai ngày chúng tôi trở về quê hương, ngồi hầu chuyện ông mình trong ngôi nhà cổ xưa của dòng họ, một cảm giác kính trọng nhưng vô cùng thân thuộc. Thân thuộc trong cách ông gọi chúng tôi là “các anh chị em tôi từ Việt Nam”, trong tiếng ho húng hắng của ông, trong cái cách ông tận tình trả lời bất cứ câu hỏi nào của các thành viên trong đoàn. Chúng tôi thầm gọi đùa ông là “Qui Lão”, mà quả thật, trên chiếc ghế bành của mình, trông ông rất giống một “cụ rùa”, với đôi mắt già hiền từ, toát ra một vẻ thông tuệ như đại hải mà lại tinh nghịch trẻ trung như trẻ thơ. Ông không ngừng lắc lư, ho hắng, hắt hơi, niệm chú, thỉnh thoảng lại gãi gãi gò má và liên tục pha trò trong câu chuyện của mình. Suốt hai ngày Pháp thoại, lúc nào cũng vang lên tiếng cười khà khà hóm hỉnh của ông, dường như ông luôn ngạc nhiên vì những ý tưởng của chính mình và tự cười chính những ý tưởng đó. Từ vẻ sững sờ khi một thành viên trong đoàn hỏi ông về câu nói được cho là của ông đang lan truyền trên mạng Internet (“ Điều gì làm Ngài ngạc nhiên nhất về nhân loại? Con người- bởi vì họ hi sinh sức khỏe để kiếm tiền, rồi lại bỏ tiền ra để tìm lại sức khỏe. Họ quá sốt ruột với tương lai nên chẳng còn thời gian để tận hưởng hiện tại, kết quả là họ chẳng sống ở hiện tại hay ở tương lai. Họ sống như thể họ không bao giờ chết, rồi lại chết như chưa từng được sống”). “Tôi có nói thế bao giờ đâu! Này, đừng tin ở Internet, nó là một trong những thứ rất tốt đẹp được sinh ra, nhưng người ta cũng có thể lợi dụng nó để làm điều xấu xa đấy!”, cho đến cách ông tự trào khi các thị giả khoác lên người ông vương bào để ông làm lễ qui y và phát nguyện Bồ Đề tâm cho một số thành viên trong đoàn( “để làm lễ nên họ bắt tôi phải mặc cái áo bào này, làm như cái áo này sẽ làm cho tôi thánh thiện hơn ấy”); hay ngay cả khi ông nói đến những vấn đề hệ trọng như quan hệ với nhà cầm quyền Trung Quốc (“họ luôn gọi tôi là quỷ dữ, hôm nay thế là các anh chị em đã được gặp quỷ rồi đấy”). Và tôi hiểu, tại sao với người Tạng, ông là hiện thân của Huệ Hải (trí tuệ lớn như biển)- không gian xung quanh ông tràn ngập vẻ đẹp mêng mông của sự giản dị, trong sáng mà thâm sâu của một trí tuệ vĩ đại.
Vị Pháp vương giữa thế tục
 “Thế kỷ XXI là thế kỷ của lòng tham vật chất, và con người chợt nhận ra rằng, những tiến bộ của khoa học và kỹ thuật không giải quyết được những vấn đề cơ bản của con người”- ông bắt đầu buổi Pháp thoại của chúng tôi như vậy-“để giải quyết những vấn đề tinh thần của con người, có ba con đường: tin vào một (hay nhiều) đấng chúa trời như Thiên chúa giáo, Hồi giáo hay Ấn giáo; tin vào một đấng giác ngộ như Phật giáo; con đường thứ ba là con đường của chủ nghĩa thế tục, mong muốn dùng khoa học để giải quyết những vấn đề tinh thần của con người- và con đường này cũng hết sức quan trọng”
Trong suốt hai ngày Pháp thoại, chữ “chủ nghĩa thế tục” cứ quay đi quay lại trong bài giảng của ông. Có lẽ, trong các lãnh tụ tôn giáo, ông là người quan tâm nhiều nhất đến những điểm chung giữa tôn giáo và khoa học, tôn giáo và giáo dục, tôn giáo và đạo đức (“cần phải tăng cường giáo dục về đạo đức cho con người, đạo đức thế tục không có nghĩa là thiếu tôn trọng tôn giáo mà có nghĩa là tôn trọng tất cả các tôn giáo”-ông nói). Ở một nghĩa nào đó, tôi cho rằng, sự quan tâm của Đức Đạt Lai Lạt Ma đối với chủ nghĩa thế tục có liên quan nhiều đến sự quan tâm của ông đối với số phận của dân tộc Tạng, dân tộc ông đã dẫn dắt suốt năm mươi năm qua. Cho dù đã tuyên bố từ bỏ vai trò chính trị, không thể phủ nhận sự giằng xé  giữa vai trò nặng nề của một chính trị gia có trách nhiệm với dân tộc bị đàn áp của mình, với mong muốn đạt được sự hiểu biết và giác ngộ cho chính bản thân. Có một nối buồn ẩn sâu trong câu nói đùa của ông “ khi xảy ra chiến tranh ở Việt Nam, tụng niệm “A-di-đà-phật” có làm chiến tranh ngừng lại đâu? Cũng như dân tộc Tạng chúng tôi, tụng niệm “A-di-đà-phật” có ngăn chặn được việc chúng tôi bị giết, bị đuổi khỏi nhà, lưu vong trên xứ sở lạ được đâu? Cho nên tụng niệm “A-di-đà-phật” không đủ, phải tìm cách hiểu thế giới, tìm cách nắm được tri thức thì mới có cơ hội”
Chính vì vậy, Đức Đạt Lai Lạt Ma nói, trong suốt ba mươi năm qua, ông đã tiến hành hàng ngàn cuộc trao đổi với các nhà triết học, tâm lý học, vật lý và vật lý lượng tử học, và chính trong các cuộc trao đổi như vậy, hai bên đã làm giầu kiến thức cho nhau. “Các nhà khoa học hết sức quan tâm đến quan điểm của Phật giáo về thế giới, bởi vì đối với Phật giáo không có Đấng sáng tạo, mà đức Phật cũng là một chúng sinh bình thường nhưng với huệ giác cao cả, tái sinh để khai mở con đường chứng ngộ cho nhân loại mà thôi…họ đặc biệt quan tâm đến thuyết “duyên khởi” và “tùy thuộc phát sinh” của Phật giáo chúng ta, vì khái niệm mọi vật liên quan tương hỗ đến nhau của nhà Phật rất gần với cách họ hiểu về thế giới”. Ông cũng nói ông đã học được gì từ những cuộc trao đổi đó: “Trong một cuộc hội nghị ở Nam Mỹ, tôi đã gặp một nhà vật lý nguyên tử người Chi-lê. Ông ấy nói với tôi rằng, để có thể tìm hiểu được vật lý nguyên tử nói riêng hay khoa học nói chung, với tư cách một nhà khoa học, ông ấy phải tìm cách “thoát bỏ” khỏi khoa học để có góc nhìn rộng hơn. Ông ấy làm tôi giật mình. Phải chăng để tìm hiểu về Phật giáo, tôi cũng phải tìm cách “thoát bỏ” để có thể có một góc nhìn khác đối với Phật pháp”.
Vậy phải hiểu thế giới như thế nào? “Có quá nhiều thứ xấu xa đã xảy ra chỉ vì chúng ta luôn phân biệt “chúng nó” và “chúng ta”. Phân biệt giữa chủng tộc này với chủng tộc khác, dân tộc này với dân tộc khác, thậm chí gia đình này với gia đình khác, người này với người khác. Luôn luôn có một ranh giới giữa “chúng nó” và “chúng ta”, và điều này tạo ra tham ái, tham ái sẽ tạo ra sân hận, si mê. Chỉ khi nào mọi người hiểu rằng, nền tảng của con người nói chung, bất kể họ là “nó” hay “chúng ta”, là ham muốn hạnh phúc, và vì vậy, chỉ khi nhân loại hiểu rằng chỉ có một “chúng ta” thống nhất mà không có “nó”, và tất cả chúng ta đều liên quan tương hỗ với nhau trong khát vọng mưu cầu hạnh phúc, khi đó mới có thể có một thế giới hòa bình”
 Phật Giáo trong nghĩa bản thủy  của nó
 Trước khi tới Dharamsala, có người giải thích cho tôi vì sao thời gian vừa qua, bỗng dưng người Việt Nam đặc biệt quan tâm đến Mật tông Tây tạng. “Người Việt mình vốn vừa mê tín vừa lười biếng, nên khi nghe đồn Mật tông Tây tạng có nhiều chân ngôn, chú ngữ thì tin vào nó như tin vào những phép mầu, lại nghĩ rằng theo truyền thống Mật tông, các bậc thầy có thể truyền lại cho đệ tử những bí chú, các phép mầu (mà họ gọi một cách “hiện đại” là “năng lượng”) thông qua mật ngôn hoặc trì chú, vì thế không cần phải cố gắng gì, chỉ cần “có duyên” tìm ra được một bậc thầy rồi câu thông được với linh hồn của bậc  thầy đó là có thể có được những năng lượng đặc biệt, do đó họ mới thích thú với Mật tông Tây tạng như vậy”.
 Đức Đạt Lai Lạt Ma dường như thấy trước được điều đó, nên ông dành gần như toàn bộ thời gian Pháp thoại của chúng tôi để dẫn dắt mọi người quay lại với nguồn cội của Phật giáo. Ông cảnh báo “các bạn rồi sẽ gặp những vị Lạt Ma, những người hứa với các bạn chỉ cần bỏ ra vài chục ngàn đô các bạn sẽ đạt được tới sự giác ngộ. Hãy cảnh giác và sử dụng lý trí của mình. Hãy lựa chọn bậc thầy của mình. Thử nghĩ xem, bạn ra chợ mua một món đồ đắt tiền, bạn có xem xét cẩn thận không? Có kiếm tra nó không? Vậy tại sao với một thứ quan trọng như Phật pháp, các bạn lại không xem xét cho cẩn thận. Trong số 320 bộ sách của Tạng pháp, có 12 bộ nói về những đức tính cần có của bậc thầy. Hiện quán Trang Nghiêm Kinh đã liệt kê rất nhiều yêu cầu về bậc thầy, từ Từ, Hòa, Bi, Tuệ…vv nhưng Mật tông còn đòi hỏi cao hơn, yêu cầu cả về nội công đức và ngoại công đức của họ. Đối với Phật giáo, không có đường tắt! Phật giáo có thể tóm gọn trong hai từ Giáo-Chứng! Trước tiên, phải học (Giáo), sau đó, khảo nghiệm nó, thực hành nó để tìm ra huệ giác cho mình (Chứng)…Cũng giống như bước vào trường học, phải học qua các lớp, chúng ta phải học tập dần dần, từ Giới Học, tới Định Học và cuối cùng là Tuệ Học mới mong đạt được giác ngộ chân chính. Bước đầu tiên như Giới Học, chúng ta cũng có tới 227 giới để tu tập, chưa kể tới các bước kế tiếp…Đức Phật đã tìm ra con đường để giải thoát, nhưng ngài chỉ chỉ cho chúng ta thấy con đường đó và làm thế nào để đi đến đích, còn việc lựa chọn bước lên con đường đó và bước từng bước để đạt tới giác ngộ cuối cùng là hành động của các anh chị em…”
Vậy, phải học gì? Đức Đạt Lai Lạt Ma bắt đầu buổi Pháp thoại bằng giáo thuyết cho chúng tôi về “ngã” và ba câu hỏi quan trọng nhất của Phật giáo Mật Tông (“ngã là gì”? “có kết thúc của ngã hay không?”, “ngã có tồn tại độc lập với thể xác hay không?”). Ông cũng thuyết giảng về “luân hồi”, về thuyết Duyên khởi và mười hai nhân duyên, đặc biệt về “vô minh”, phân biệt giữa “vô minh do thiếu hiểu biết” và “vô minh do hiểu biết sai” (ông dùng chữ “distorted ignorance” mà các sư thầy dịch là “tà niệm”, nhưng tôi thấy không chính xác) và sự nguy hiểm của vô minh do hiểu biết sai. Hiểu biết sai là nguồn gốc của “tam độc”- tham, sân, si khiến con người bị chìm trong luân hồi, chịu đựng đau khổ của “nghiệp”. Ông giảng về tầm quan trọng của Tứ Diệu đế trong Chuyển luân kinh, giáo pháp đầu tiên Đức Phật thuyết giảng tại vườn Lộc Uyển sau khi ngài đạt Giác ngộ, Bát Chính Đạo và Bát Nhã Ba La Mật Đa tâm kinh, vừa giảng vừa ngâm nga câu cuối cùng của tâm kinh “tadyatha-gate gate paragate parasamgate bodhi svaha! (Vượt qua, vượt qua, vượt qua bên kia, hoàn toàn vượt qua, tìm thấy giác ngộ). Dường như ông hiểu được, đối với một “đại chúng” ô tạp như chúng tôi, tâm trí chứa đầy những thiên kiến của “vô mình do hiểu biết sai” thì cách tốt nhất là dẫn dắt chúng tôi trở về với điểm bắt đầu của Phật giáo. Cho nên, có thể đối với một số người, khoảng khắc Đức Đạt Lai Lạt Ma niệm và hướng dẫn chúng tôi niệm hai mươi mốt lần Lục Tự Đại Minh chân ngôn (Om Mani Padme Hum) là khoảng khắc xúc động nhất, nhưng với tôi, quan trọng hơn cả là lời giảng của ông về chân ngôn này. Ông nói, Om có nghĩa là Thân-Khẩu-Ý, Mani là ngọc quí, Padme là trí tuệ, Hum là kết hợp lại, cho nên Lục Tự Đại Minh chân ngôn có nghĩa là hãy dùng trí tuệ để kết hợp thân-khẩu-ý lại hoàn hảo để hiểu được tính Không, như một viên ngọc quí. Hiểu được tính Không, có nghĩa là sẽ hiểu được cách “đoạn vô minh”, từ đó đạt được sự giác ngộ
Tôi cứ tự hỏi, vì lẽ gì Đức Đạt Lai Lạt Ma phải mất hai ngày quí báu của ông để truyền thụ Phật pháp cho chúng tôi, hơn một trăm người phần lớn không phải Phật tử, phần lớn còn trong cõi vô minh? Phải chăng chúng tôi đã quá may mắn, hay đối với ông, không quan trọng là bao nhiêu người, ở đâu và khi nào, mà quan trọng là mầm thiện mà ông đã kiên nhẫn gieo vào lòng chúng tôi, khi chúng tôi thầm phát nguyện Bồ Đề tâm theo sự dẫn dắt của ông, bắt đầu bước bước chân đầu tiên trên con đường giác ngộ: “Với ước nguyện giải thoát cho toàn thể chúng sinh, con xin về nương dựa nơi Phật, Pháp cùng Tăng Già, cho đến khi giác ngộ. Hôm nay tâm hướng về Từ bi và Trí tuệ, đối trước đức Phật, con quyết vì thế giới hữu tình, nguyện phát tâm Bồ đề. Bao giờ không gian còn, hữu tình còn, nguyện con còn ở lại, xua tan khổ nạn cõi thế gian”
Tác giả gửi cho Quê choa

Thứ Sáu, 18 tháng 11, 2011

Được gặp đức Đạt Lai Lạt Ma

Ngày 16 tháng 11 vừa qua là một ngày đặc biệt, bởi đức Đạt Lai Lạt Ma viếng thăm bang Jammu and Kashmir, nơi blog tui đang ở và học tập. Cách đây ba năm có lên Dhamsala, nơi Ngài ở, hòng được diện kiến Ngài một lần trong đời, nhưng 3 ngày ở trên đó, Ngài không có việc gì để ra ngoài cho dân chúng chiêm ngưỡng. Cứ nghĩ, mình chắc khó gặp được Ngài rồi, ai ngờ...

Chính quyền bang Jammu and Kashmir thỉnh Ngài tới thăm. Tin Ngài tới đã lan truyền trên mạng từ lâu, ai cũng có thể đi gặp Ngài, nhưng nếu đi tự phát và không có sự mời thì chỉ đúng xa mà nhìn thôi. Bên Ngài luôn có hàng rào an ninh đông đảo, rồi cả đám phóng viên tranh nhau chụp hình náo loạn. Blog tui đã có những khoảng khắc vui trong chuyến...chạy theo để được gặp một vị Phật sống của xứ Tây Tạng, một vị tu sĩ Phật giáo nổi tiếng trên thế giới. Kể cho bạn nghe vài chuyện trong chuyến viếng thăm này.

Ngày 15 tháng 11, ông giáo sư khoa Phật học gọi điện báo, ngày mai đi gặp ngài Lạt Ma, bên chính quyền mời khoa Phật học, và cũng bởi chỉ có khoa Phật học trường đại học Jammu là có người nước ngoài, và lại là tu sĩ các nước Thái Lan, Miến Điện, Việt Nam nên chắc được đặc cách như thế. Ông giáo sư nói, 9h15 sáng tập trung nhà ổng để đi. Blog tui có thói quen đến đúng giờ nên đi sớm. Phải nói giờ Ấn Độ dây thung còn hơn Việt Nam ta. Hẹn giờ là thế, quý sư tập trung sớm thế, còn ông giáo sư thì cứ từ từ. Ngồi cả tiếng đồng hồ nhà ổng chỉ để nói chuyện. Đến lúc ổng kêu đi thì ổng nói là trễ rồi, đi nhanh thôi....

Và thời gian dây thung này của ổng khiến cho cuộc gặp thứ nhất, có lẽ thuận tiện cho cuộc nói chuyện giữa Ngài với những người học trò đồng môn. Thế nhưng, xe vừa tới thì xe Ngài lăn bánh đi tiếp. Thế là đánh mất cơ hội có một không hai này. Việc này khiến blog tui nhớ lại chuyến đi tiếp kiến tổng thống Sri Lanka của đoàn Việt Nam hồi tháng 7 vừa rồi. Hẹn 1h30 chiều vô phủ tổng thống, thế mà anh chàng lái xe Sri Lanka lại không biết đường, lại không đến sớm, lại không hỏi trước. Thế mới biết xứ Sri Lanka và Ấn Độ giống nhau thế nào. Họ hình như ít quan tâm đến mọi việc. Cứ từ từ, chuyện gì cũng nói một câu: No Problem "không sao đâu, mọi thứ sẽ tốt". Vì thế, ở Ấn Độ riết rồi mình cũng phải kham nhẫn theo họ luôn. Có bực mình thì cũng chuốc buồn khổ vào thân tâm. Thôi thì cứ mỉm cười, thở ra thở vô vậy.

Rồi tất cả lên xe, chạy theo xe của Ngài. Thế nhưng chạy theo sao kịp, bởi xe Ngài có đoàn hộ tống chạy trước mà. Và thế là khi đến một khu vực tiếp theo để Ngài viếng thăm thì vô cổng không được. Mỗi khi Ngài đã vô chỗ nào rồi thì chỗ đó đóng cửa. Không ai được phép vô nữa. Ông giáo sư hỏi gì đó rồi nói cả nhóm đi bộ tới nơi dùng cơm trưa của Ngài đợi. Chính quyền đã dựng lên khu vực để mời Ngài và tụi phóng viên dùng trưa, sau đó tiếp tục cuộc nói chuyện.

Nhóm đến chỗ đó thì được vào bên trong. Khu vực này cũng hạn chế người ra vào, chỉ có cánh phóng viên, an ninh, chính quyền được vào để dùng trưa. Khu vực đưa phân thành hai khu, một khu dành cho khách vip bên trong, còn ở ngoài thì phóng viên và an ninh cấp thấp. Nhóm được liệt vào nhóm cấp thấp, cho ở khu vực ngoài, đợi Ngài ra nhìn mặt tí rồi đi thôi. Lúc xe Ngài vô, phóng viên chen nhau chụp hình, an ninh thì chen nhau bảo vệ. Thế là dân thường, khách mời chỉ có nước đứng xa mà nhìn. Không thể nào tiếp cận được.

Ngồi khu vực ăn trưa ở ngoài, nói chuyện với một ông làm an ninh cho đức Lạt Ma, hỏi ổng có thẻ không thì ổng rút thẻ cho xem, xin chụp hình cái thẻ nhưng ổng không cho. Trên thẻ ghi: His Holiness Security (tức: an ninh của đức Ngài), thẻ có hạn 2 năm. Chắc hai năm sau đổi cái mới... 

Sau khi dùng trưa xong, Ngài Đạt Lai Lạt Ma ra ngoài, lên xe tiếp tục chuyến viếng thăm. Cánh phóng viên tiếp tục nhào vô, phỏng vấn, chụp hình. Blog tui cũng nổi máu làm phóng viên, cũng giơ cái máy ảnh không chuyên lên chụp. Lúc Ngài lên bậc thang, lúc đó an ninh mở đường để Ngài đi, blog tui cũng nán lại để chụp hình Ngài cho rõ. Chỉ vài giây đi tới, Ngài đã ở trước mặt blog tui, và cười nói: Oh, Vietnamese? (tức hỏi, người Việt Nam hả). Bởi Ngài nhận ra tu sĩ Việt Nam, liền nắm lấy tay blog tui, cười nói và cho đứng chung chụp hình. Lúc đó mọi việc diễn ra quá nhanh, vượt ra khỏi sự suy nghĩ trước đó nên cứ đứng đó cho cánh phóng viên tha hồ chụp. Giờ nghĩ lại còn thấy tiếc vì máy mình chả có hình nào chụp chung với Ngài, duy có một hình mà người chụp chụp không rõ.

Tiếp đến, ông quan chức theo Ngài giới thiệu nói còn có mấy tu sĩ Thái Lan, Miến Điện ở ngoài nữa, thế là Ngài ra ngoài gặp trước khi lên xe. Ngài rất vui khi thấy mấy sư và bảo cùng đứng chung chụp hình. Blog tui lúc ấy bị đẩy ra đằng sau, Ngài nhìn xung quanh không thấy thế là quất tay, bảo blog tui cùng vô chụp. Quả là Ngài thương người Việt Nam mình quá đỗi. Để có được cái nhìn thiện cảm với người Việt mình như thế là nhờ chư Tăng và Phật tử Việt Nam trong nước cũng như ngoài nước, thường gặp và học Phật pháp với Ngài. Mới hồi tháng 7 vừa rồi, có gần 100 Tăng Ni và Phật tử tham dự khóa tu do Ngài tổ chức ở Dhamsala, cho nên, với Ngài, người Phật tử Việt Nam dễ thương và thân thiện hơn Phật tử các nơi khác. Chính vì điều đó mà khi gặp blog tui, Ngài nhận ra và vô cùng hoan hỷ. Chứ lúc đó, Ngài không hỏi: Vietnamese và cười thì chắc tụi an ninh bỏ qua và gạt tui ra ngoài. Ông giáo sư dắt các sư đi lại không có cơ hội được gần và chụp hình. Ngài chỉ chụp với các Sư mà thôi. Cũng bởi, Ngài là thầy, còn nhóm anh em chúng tôi là học trò mà... 


Cây cầu được an ninh bảo vệ trong chuyến viếng thăm của đức Đạt Lai Lạt Ma

An ninh dày đặc.

Xe chở sinh viên Tây Tạng tới nghe buổi thuyết pháp công cộng sau buổi trưa.


Có vài chiếc xe cứu thương trực sẳn

Baner về sự kiện Ngài viếng thăm Jammu giăng đầy phố

Ngài thăm Akhnoor, nơi khảo cổ có liên quan đến Phật giáo


Qua phải khám xét


Ngài vô khu vực nghĩ trưa và ăn trưa. Xe Ngài ưu tiên vô thẳng bên trong



Phóng viên tranh nhau chụp

Ngài đeo khẩu trang màu vàng

Xe chở Ngài với hai lá cờ Ấn Độ và Tây Tạng

Khu vực dành riêng cho Vip, có an ninh canh bên ngoài.

Hai tay an ninh riêng, canh giữ chiếc xe. Ai đi gần đều bị kéo ra.

Sau khi ăn trưa xong, Ngài ra xe đi tiếp

Phóng viên và mọi người tranh nhau chụp hình


Lúc này ai cũng tránh ra, chỉ có blog tui đúng lại chụp Ngài cho rõ hơn, thì Ngài hỏi câu: Vietnamese? rồi  cho chụp hình chung.

Một bức ảnh duy nhất có trong máy, nhờ người bạn chụp như không được như ý. Thôi coi như kỹ niệm khó quên vậy.
Hai hình này chụp cuối cùng trước khi đức Đạt Lai Lạt Ma lên xe. Ngài gặp sư Tăng độ chừng vài phút, chụp hình chung rồi đi tiếp.